Tại các thành phố lớn, giao thông là một trong những nguồn phát thải lớn gây ô nhiễm. Ảnh: Xuyên Đông
Thành phố lớn, ô nhiễm nặng
Trong nhiều năm qua, Hà Nội và TPHCM thường xuyên nằm trong nhóm đô thị có chất lượng không khí đáng lo ngại. Theo Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam (SVCAP), nồng độ bụi mịn PM2.5 tại nhiều khu vực nội đô của 2 thành phố này luôn ở mức cao và có xu hướng tăng lên. Các nguyên nhân gây ô nhiễm đã được nhận diện rõ ràng: Khí thải từ phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, bụi phát sinh từ hoạt động xây dựng, khí thải từ các cơ sở sản xuất ngoài nội đô sử dụng than dầu, cũng như tình trạng đốt rác, đốt rơm rạ ngoài khu vực thành phố.
Điểm khó nhất trong xử lý ô nhiễm không khí là tính chất vật lý - hóa học khác biệt. Ô nhiễm không khí không dễ quan sát như nước thải hay rác thải rắn, lại tồn tại dưới dạng sơ cấp và thứ cấp, chịu chi phối lớn của điều kiện khí tượng. Đặc biệt, không thể có “nhà máy xử lý không khí xung quanh”, mọi giải pháp đều phải tập trung kiểm soát phát thải ngay tại nguồn.
Tác hại của ô nhiễm không khí là nghiêm trọng. Theo các nghiên cứu quốc tế, đây là nguyên nhân đứng thứ tư gây tử vong sớm trên toàn cầu. Tuy vậy, những tác động thường đến từ từ, khó cảm nhận trong ngắn hạn, khiến công tác tuyên truyền và thay đổi hành vi của cộng đồng càng thêm thách thức. Ở Hà Nội, chỉ riêng xe máy đã tạo ra gần 7 triệu “ống khói di động”, trong khi nguồn phát thải phân tán, khó “điểm mặt chỉ tên”. Ai cũng vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm.
Công tác quan trắc và giám sát ô nhiễm phức tạp hơn các lĩnh vực môi trường khác. Nhiều chủ thể cùng tham gia, lợi ích - chi phí phân tán, đôi khi mâu thuẫn. Hơn nữa, ô nhiễm không khí còn mang tính xuyên biên giới, vượt khỏi phạm vi một đô thị đơn lẻ. Bởi vậy, xử lý vấn đề này đòi hỏi quyết tâm kiên trì và sự phối hợp của nhiều cấp, nhiều ngành.
Ở cả Hà Nội và TPHCM, nhận thức cộng đồng về tác hại của ô nhiễm không khí đã được nâng lên rõ rệt. Các kế hoạch hành động quốc gia, chiến lược chuyển đổi xanh khẳng định không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế. Vấn đề đã được chỉ rõ, nguồn ô nhiễm đã được xác định, kinh nghiệm quốc tế đã có, công nghệ quan trắc và xử lý ngày càng phát triển. Điều còn thiếu chính là sự quyết liệt, đồng bộ và kiên trì.
Hà Nội đang tiên phong trong chuyển đổi xanh. Ảnh: Xuyên Đông
Để hai thành phố lớn trở thành "đầu tàu"
Hà Nội đã xác định rõ mục tiêu trở thành hình mẫu về giao thông xanh. Trong cuộc họp đầu tháng 9 mới đây, Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Mạnh Quyền đã chủ trì cuộc họp với các sở, ngành để rà soát tiến độ triển khai chuyển đổi xanh.
Báo cáo từ Sở Xây dựng cho thấy, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành 23 tiêu chuẩn quốc gia liên quan đến trụ, trạm sạc xe điện. Tuy nhiên, hiện chưa có quy chuẩn bắt buộc, dự kiến sẽ được công bố vào tháng 11.2025.
Theo Sở Xây dựng Hà Nội, trung tâm Hạ tầng kỹ thuật Hà Nội đã khảo sát 19 vị trí công viên, bãi đỗ xe để lắp đặt trạm sạc. Trung tâm Quản lý giao thông xác định 3/5 điểm trung chuyển có thể bố trí hạ tầng cho xe buýt điện. Các chung cư tái định cư, ký túc xá sinh viên, nhà ở xã hội cũng dự kiến có 81 trụ sạc cho ôtô và 105 trụ sạc cho xe máy. Nhiều doanh nghiệp đề xuất đầu tư quy mô lớn: Công ty TMT xin thí điểm 500 vị trí; Công ty V-Green xin lắp đặt tại 106 điểm; Tập đoàn Sài Đồng đề xuất 1.040 vị trí trong khu đô thị sinh thái.
Hà Nội đặt mục tiêu trước năm 2030 hoàn thành chuyển đổi toàn bộ xe buýt và taxi sang năng lượng sạch, thậm chí phấn đấu sớm hơn vào năm 2029. Với tinh thần đó, Phó Chủ tịch Nguyễn Mạnh Quyền khẳng định sẽ thí điểm ngay các trạm sạc ở vị trí phù hợp, yêu cầu nhà đầu tư tuân thủ nghiêm quy chuẩn phòng cháy, an toàn kỹ thuật.
Trong khi đó, TPHCM đang định hình chiến lược dài hạn, coi giao thông điện là mũi nhọn để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Chia sẻ tại buổi tọa đàm: “Chung tay bảo vệ bầu trời xanh - thách thức và giải pháp” mới đây, PGS.TS Đàm Hoàng Phúc - Đại học Bách khoa Hà Nội - thông tin, theo nghiên cứu TPHCM đã xây dựng kế hoạch hành động giao thông điện với kịch bản can thiệp cao. Đến năm 2030, lượng phát thải khí nhà kính sẽ giảm 866.000 tấn CO2 tương đương; đến năm 2050, giảm 11,889 triệu tấn.
Một loạt biện pháp mạnh tay sẽ được áp dụng: Tăng phí trước bạ, phí vào trung tâm và phí ô nhiễm; dừng đăng ký mới ôtô diesel trước 2030, xe dùng nhiên liệu hóa thạch trước 2035, động cơ đốt trong trước 2040; xe máy động cơ đốt trong dừng đăng ký mới trước 2040. Với taxi và xe buýt, lộ trình còn nhanh hơn, dừng đăng ký xe buýt diesel từ 2025, xe buýt dùng nhiên liệu hóa thạch từ 2030. Đồng thời, chương trình ưu đãi chuyển đổi sang xe buýt điện sẽ được thí điểm trong giai đoạn 2025 - 2030.
Về hạ tầng, TPHCM dự kiến ban hành bộ tiêu chuẩn sạc thống nhất trong năm 2025, tăng trưởng số trạm sạc trung bình 22% mỗi năm.
Rõ ràng, cả Hà Nội và TPHCM đều đã có những bước đi quyết liệt để hướng tới mô hình đô thị xanh. Trong tiến trình này, hai đô thị lớn không chỉ giải quyết bài toán môi trường cho chính mình mà còn có vai trò dẫn dắt cả nước. Bởi lẽ, nếu hai trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất cả nước thành công trong chuyển đổi xanh, đó sẽ là cú hích mạnh mẽ để các địa phương khác cùng hành động.
Nguồn laodong.vn
Link bài gốchttps://laodong.vn/xa-hoi/ha-noi-va-tphcm-dan-dau-trong-chuyen-doi-xanh-bao-ve-moi-truong-1576955.ldo