Trong những năm qua, Việt Nam đã và đang chú trọng việc xây dựng và phát triển thị trường cho ngành công nghiệp môi trường để thúc đẩy thị trường sản phẩm hàng hóa cho ngành này phát triển, từng bước phát triển ngành công nghiệp môi trường trở thành một ngành kinh tế không chỉ đáp ứng các yêu cầu về xử lý các vấn đề môi trường mà còn đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế.
Ngành công nghiệp môi trường được nhìn nhận như một ngành kinh tế gồm sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ trong các lĩnh vực chính là công nghệ, thiết bị, sản phẩm công nghiệp môi trường; dịch vụ công nghiệp môi trường (thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế chất thải; quan trắc, phân tích…); sử dụng bền vững tài nguyên, phục hồi môi trường.
(Ảnh minh họa)
Hiện nay, các hoạt động nhằm phát triển ngành công nghiệp môi trường tại Việt Nam đang từng bước được cân đối, hài hòa giữa ba lĩnh vực chính, gồm: Dịch vụ môi trường (Phân tích và quan trắc môi trường; Quản lí, kiểm soát ô nhiễm, Dịch vụ tư vấn quản lý môi trường); Phát triển công nghệ và sản xuất thiết bị (Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý môi trường; Sản xuất thiết bị và vật liệu xử lý môi trường; Phát triển công nghệ thông tin chuyên ngành môi trường; Sản xuất thiết bị đo lường và kiểm soát ô nhiễm môi trường; Công nghệ ngăn ngừa ô nhiễm); Phát triển và khôi phục tài nguyên (Phát triển các dạng năng lượng mới; Phục hồi tài nguyên; Các hoạt động tái chế chất thải).
Tuy nhiên, ngành công nghiệp môi trường hiện đang gặp không ít khó khăn thách thức được các chuyên gia chỉ ra. Đây được xem là khoảng trống, là điểm nghẽn cản trở quá trình hình thành đầy đủ chuỗi giá trị trong ngành tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực cung ứng công nghệ, thiết bị và dịch vụ xử lý, tái chế chất thải rắn.
Theo các chuyên gia, khoảng trống về chính sách và thể chế. Hệ thống chính sách hiện nay thiếu tính xuyên suốt, chưa đồng bộ và chưa nhất quán từ trung ương đến địa phương. Khi khung pháp lý không rõ ràng, không ổn định, thì các chủ thể bên dưới rất khó triển khai. Điều này tạo ra sự lúng túng trong thực thi và hạn chế khả năng huy động nguồn lực xã hội vào lĩnh vực môi trường.
Khoảng trống trong cơ chế thực thi và ưu đãi. Ngay cả khi một doanh nghiệp đã đầu tư bài bản vào tái chế hoặc xử lý chất thải, họ vẫn không thể tiếp cận được các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả. Chính sách còn chậm, thiếu linh hoạt, chưa phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Việc chậm trễ trong ban hành các cơ chế cụ thể khiến nhiều mô hình tiên phong không thể nhân rộng.
Khoảng trống về khoa học, công nghệ. Mặc dù có không ít doanh nghiệp và viện nghiên cứu đã làm chủ một số công nghệ xử lý rác quy mô nhỏ, như công nghệ lò đốt tầng sôi, xử lý nước thải... nhưng phần lớn vẫn chưa thể phát triển đến quy mô thương mại. Thiếu cơ chế hỗ trợ thử nghiệm, thiếu vùng ứng dụng thực tế, thiếu vốn đầu tư tiếp tục khiến các công nghệ tiềm năng bị "kẹt" ở mức nghiên cứu.
Khoảng trống về hạ tầng kỹ thuật và công nghiệp phụ trợ. Đây là điểm nghẽn không chỉ trong công nghiệp môi trường mà còn trong toàn bộ nền công nghiệp quốc gia. Việt Nam thiếu các ngành cơ khí chế tạo nền, thiếu năng lực sản xuất linh kiện cốt lõi, dẫn đến việc vẫn phải nhập khẩu phần lớn dây chuyền, thiết bị tái chế, xử lý chất thải. Một doanh nghiệp có thể tự chế tạo vỏ lò đốt, nhưng bộ điều khiển, lõi xử lý, phần mềm… đều phải nhập. Khi không làm chủ được hạ tầng kỹ thuật, chúng ta rất khó để xây dựng chuỗi giá trị bền vững và chủ động.
Khoảng trống về tài chính do thiếu cơ chế phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính. Các doanh nghiệp môi trường, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, rất khó tiếp cận vốn tín dụng, kể cả trung và dài hạn. Các quỹ tín dụng xanh hay quỹ môi trường tuy đã được thành lập nhưng hoạt động chưa hiệu quả, chưa thực sự mang lại động lực đầu tư cho doanh nghiệp…
Khoảng trống nghiêm trọng nhất chính là khoảng trống về nhận thức. Nhiều cấp lãnh đạo và cả cộng đồng vẫn chưa nhận diện đúng vai trò của công nghiệp môi trường như một ngành kinh tế chiến lược. Chất thải vẫn bị coi là thứ bỏ đi, thay vì được nhìn nhận như một loại tài nguyên tái tạo.
Tất cả những khoảng trống này khiến cho ngành công nghiệp môi trường tại Việt Nam chưa thể hình thành đầy đủ một chuỗi giá trị khép kín. Nếu không được khắc phục một cách căn cơ và bài bản, chúng ta sẽ tiếp tục dừng lại ở cấp độ “làm sạch môi trường” mà không thể tiến lên cấp độ tuần hoàn hay không phát thải, tức không thể tạo ra một ngành kinh tế xanh thực sự.
Theo các chuyên gia, để công nghiệp môi trường trở thành ngành mũi nhọn, không chỉ phục vụ nhu cầu nội tại mà còn hướng tới xuất khẩu công nghệ và dịch vụ, thì những khoảng trống nói trên cần sớm được lấp đầy bằng tư duy đổi mới và chính sách đột phá./.
PHẠM DUNG
Nguồn thiennhienmoitruong.vn
Link bài gốchttps://thiennhienmoitruong.vn/khoang-trong-khien-nganh-cong-nghiep-moi-truong-kho-hinh-thanh-chuoi-gia-tri-khep-kin.html