Rừng không chỉ là nguồn gỗ mà còn là tài nguyên thiên nhiên đa giá trị – bảo vệ môi trường, duy trì sinh thái và chống biến đổi khí hậu - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Tầm nhìn tương lai cho ngành lâm nghiệp
Với vai trò là một trong ba trụ cột của ngành nông nghiệp, bên cạnh chăn nuôi và thủy sản, lâm nghiệp không chỉ được định hướng phát triển bền vững mà còn đa mục tiêu, khai thác tối đa tiềm năng để đóng góp vào kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh: "Rừng không chỉ là nguồn gỗ mà còn là tài nguyên thiên nhiên đa giá trị – bảo vệ môi trường, duy trì sinh thái và chống biến đổi khí hậu". Với diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp 15,8 triệu ha, trong đó 14,8 triệu ha có rừng (chiếm 93%) và gần 8 triệu ha là rừng sản xuất, ngành lâm nghiệp đang có dư địa phát triển đáng kể. Giá trị sản xuất tăng bình quân 4,7%/năm trong thời gian qua, cùng với xuất siêu chiếm 60% thặng dư thương mại cả nước, cho thấy ngành đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, Bộ trưởng chỉ ra rằng tiềm năng này chưa được khai thác tương xứng do những hạn chế về thể chế, đầu tư và ứng dụng công nghệ.
Các thế hệ lãnh đạo ngành đã xây dựng hệ thống pháp luật chi tiết, tổ chức sản xuất hiệu quả và từng bước biến lâm nghiệp thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Dù vậy, vẫn tồn tại nhiều thách thức: chính sách chưa đồng bộ, hạ tầng giao thông phục vụ quản lý rừng yếu kém, đầu tư từ Trung ương đến địa phương chưa thỏa đáng, và việc ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm. Tình trạng chồng lấn chủ rừng – với gần 1,2 triệu chủ rừng, trong đó 2.000 chủ rừng nhà nước chiếm 50% diện tích – cùng mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ độ che phủ rừng, là những rào cản cần giải quyết.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị chỉ ra rằng quy hoạch lâm nghiệp thường bị điều chỉnh bởi các quy hoạch khác như giao thông, hạ tầng, kinh tế, gây khó khăn trong quản lý. Hệ thống chính sách hỗ trợ rừng còn phân tán, dễ chồng chéo. Để khắc phục, ngành đã đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, tạo sự linh hoạt trong triển khai. Tuy nhiên, vấn đề nhân lực chất lượng cao và hạ tầng yếu kém vẫn cần được đầu tư mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu phát triển hiện đại.
Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường kiến nghị bổ sung tiền thu từ dịch vụ môi trường rừng (khoảng 3.000 tỷ đồng/năm) vào giá trị sản xuất của ngành, nhằm phản ánh đầy đủ đóng góp của lâm nghiệp vào kinh tế - xã hội. Đây là nguồn lực quan trọng để tái đầu tư, nâng cao chất lượng rừng và hỗ trợ cộng đồng sống gần rừng.
Sản xuất rừng bền vững giúp ngành công nghiệp gỗ phát triển vượt bậc - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm của lâm nghiệp
Ngành lâm nghiệp Việt Nam đang chuyển mình từ vùng "tăng trưởng an toàn" sang giai đoạn bứt phá bền vững. Với chiến lược đa mục tiêu, ứng dụng công nghệ và hoàn thiện thể chế.
Để đưa ngành lâm nghiệp bứt phá, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy định hướng phát triển theo hướng "đa giá trị, đa mục tiêu". "Lâm nghiệp không chỉ là kinh tế mà còn gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn sinh thái và phát triển bền vững", ông nhấn mạnh. Chiến lược này tập trung vào các nhóm nhiệm vụ chính:
Thứ nhất là hoàn thiện thể chế và chính sách. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy yêu cầu rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, xử lý chồng chéo giữa quản lý rừng với các lĩnh vực như đất đai, bảo tồn đa dạng sinh học. Năm 2024, Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành nhiều nghị định tháo gỡ khó khăn cho địa phương, đặc biệt trong chuyển mục đích sử dụng rừng. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và tăng cường phối hợp với các ngành, địa phương sẽ tạo cơ chế hỗ trợ để người dân yên tâm sống gần rừng.
Thứ hai là cơ cấu lại ngành và ứng dụng công nghệ. Phát triển lâm nghiệp bền vững đòi hỏi thay đổi phương thức sản xuất và nâng cao chất lượng rừng. Bộ trưởng chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, bảo vệ rừng và ứng phó thiên tai. Việc cấp mã số vùng trồng rừng đã được thí điểm tại 10 tỉnh trong năm 2024, mang lại tín hiệu tích cực. Đây là tiền đề để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu rừng trồng và truy xuất nguồn gốc gỗ trên toàn quốc, tăng tính minh bạch và giá trị xuất khẩu.
Thứ ba là phát triển kinh tế đa dạng từ rừng. Ngoài khai thác gỗ, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế dưới tán rừng, du lịch sinh thái và bảo tồn. Bộ trưởng nhấn mạnh vai trò của tín chỉ carbon – nguồn tài nguyên quý giá của Việt Nam – như một công cụ đàm phán quốc tế trong tương lai. "Tín chỉ carbon sẽ sớm trở thành lợi thế cạnh tranh của ngành lâm nghiệp", ông dự báo. Đồng thời, tuyên truyền và tập huấn cộng đồng về vai trò đa giá trị của rừng sẽ thay đổi nhận thức, khuyến khích người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
Cuối cùng là đầu tư và phát triển nguồn nhân lực. Về nội dung này, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị thừa nhận nguồn vốn cho phát triển rừng còn thiếu bền vững do chu kỳ sản xuất dài và nhiều rủi ro. Các dự án bảo vệ rừng tự nhiên, nâng cao chất lượng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học đòi hỏi chi phí lớn nhưng lợi ích kinh tế ngắn hạn không rõ ràng.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ đạo ngành lâm nghiệp nghiên cứu chính sách khuyến khích bảo vệ môi trường, phát triển thị trường tín chỉ carbon và nâng cao đãi ngộ cho lực lượng lao động lâm nghiệp. "Mức khoán bảo vệ rừng hiện nay quá thấp, khó đảm bảo đời sống người dân", Bộ trưởng nhấn mạnh đây là rào cản trong xây dựng nông thôn mới tại vùng sâu, vùng xa.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy tin tưởng rằng với định hướng đúng đắn, ngành lâm nghiệp sẽ sớm đạt mức tăng trưởng hai con số trong vài năm tới. Phát triển bền vững không chỉ là mục tiêu mà còn là con đường tất yếu. Từ việc nâng cao hàm lượng công nghệ chế biến, mở rộng giá trị kinh tế dưới tán rừng, đến phát triển tín chỉ carbon, ngành lâm nghiệp đang được định vị lại để trở thành động lực kinh tế quan trọng, đồng thời bảo vệ môi trường sống cho thế hệ tương lai.
Đỗ Hương
Nguồn baochinhphu.vn
Link bài gốchttps://baochinhphu.vn/nganh-lam-nghiep-con-nhieu-du-dia-but-pha-102250307103146496.htm