Tổng nhu cầu đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế xanh, bền vững của Việt Nam đến năm 2050 ước khoảng 670 – 700 tỉ USD. Trong đó, riêng nhu cầu vốn cho thích ứng với biến đổi khí hậu lên tới khoảng 368 tỉ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm. Con số này cho thấy nhu cầu huy động nguồn lực tài chính rất lớn trong dài hạn.
Theo các chuyên gia, bài toán vốn cho phát triển bền vững không chỉ nằm ở quy mô huy động mà còn ở hiệu quả sử dụng vốn. Việc phát triển đồng bộ các kênh huy động vốn như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán và các công cụ tài chính kết hợp công – tư là những nội dung được nhiều quốc gia triển khai.
Cần ưu tiên nguồn vốn đầu tư các dự án 'xanh'. Ảnh minh họa.
Tại hội thảo "Đa dạng vốn cho phát triển bền vững" vừa diễn ra mới đây, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến 30/11/2025, dư nợ tín dụng xanh toàn hệ thống ước đạt khoảng 750 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn từ năm 2017 đến nay đạt trên 21%/năm, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại hiện là nguồn cung vốn lớn nhất, chiếm khoảng 88% tổng dư nợ tín dụng xanh. Nguồn vốn xanh mà các ngân hàng huy động chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu xanh và các khoản vay quốc tế.
Để thúc đẩy đa dạng hóa nguồn vốn cho phát triển bền vững, đại diện Ngân hàng Nhà nước nêu 5 nội dung trọng tâm. Cụ thể: (1) Cần làm rõ các điều kiện để thị trường vốn trở thành kênh dẫn vốn hiệu quả, bổ trợ cùng nguồn vốn tín dụng ngân hàng trong tài trợ các dự án xanh, chuyển đổi năng lượng và phát triển bền vững.
(2) Cần triển khai các giải pháp phát triển thị trường vốn xanh, khuyến khích phát hành các công cụ tài chính bền vững như trái phiếu xanh, trái phiếu bền vững và cổ phiếu của các doanh nghiệp thực hành ESG. Đồng thời, cần nâng cao năng lực của doanh nghiệp và nhà đầu tư trong việc tiếp cận, sử dụng và giám sát hiệu quả các dòng vốn và sản phẩm tài chính này.
(3) Cần tổng kết thực tiễn triển khai tín dụng xanh trong khu vực ngân hàng, đánh giá kết quả đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm và xác định định hướng tiếp theo nhằm phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc dẫn dắt và lan tỏa dòng vốn tín dụng xanh trong nền kinh tế. (4) Hoàn thiện các cơ chế, chính sách ưu tiên để thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn từ khu vực tư nhân vào các dự án xanh và tăng trưởng bền vững. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò điều tiết thông qua việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao tính minh bạch, bảo đảm an toàn và ổn định của hệ thống tài chính.
(5) Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp, thị trường vốn và các đối tác quốc tế nhằm huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của đất nước.
Dù tín dụng xanh có tốc độ tăng trưởng cao, song đến nay tỷ trọng tín dụng xanh mới chỉ chiếm gần 5% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, trong khi tổng dư nợ đã đạt khoảng 18,2 triệu tỷ đồng. Về các cơ chế ưu đãi cho dự án xanh, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã xác định chủ trương hỗ trợ lãi suất cho các dự án xanh.
Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành nghị định hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh vay vốn ngân hàng để thực hiện các dự án xanh và kinh tế tuần hoàn. Dự thảo nghị định dự kiến được trình Chính phủ xem xét ban hành trong thời gian tới và có thể triển khai từ đầu năm 2026. Nguồn ngân sách hỗ trợ sẽ được phân bổ về các địa phương. Để chính sách đi vào cuộc sống, cần có sự đồng bộ giữa nghị định hỗ trợ lãi suất, các cơ chế hỗ trợ qua quỹ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục dự án xanh và kinh tế tuần hoàn…/.
THANH BÌNH