GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp, Trường Kinh tế và Quản lý công, Đại học Kinh tế Quốc dânẢnh: VGP/HM
Theo Bộ Y tế, đến năm 2039, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm. Khi đó, hệ lụy này kéo dài sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, ảnh hưởng phát triển kinh tế, xã hội.
Phóng viên Báo Chính phủ đã có cuộc trao đổi với GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp, Trường Kinh tế và Quản lý công, Đại học Kinh tế Quốc dân – một chuyên gia với nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực dân số phát triển và an sinh xã hội về vấn đề này.
Thưa ông, theo Bộ Y tế, hiện nay, không ít gia đình vẫn mong muốn có 2 đến 3 con nhưng họ không thể hiện thực hoá được mong muốn này với lý do kinh tế và cuộc sống nhiều áp lực. Theo ông, đây có phải là xu hướng tất yếu khi đất nước phát triển không?
GS. TS Giang Thanh Long: Quan sát sự thay đổi về tỷ suất sinh của các quốc gia ở các ngưỡng thu nhập khác nhau (từ nghèo lên trung bình và giàu) thì xu hướng chung là tỷ suất sinh ở mức cao sẽ giảm xuống mức thấp và duy trì hoặc tiếp tục xuống thấp.
Tuy nhiên, các yếu tố tác động tới sự thay đổi của mức sinh lại tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa truyền thống…
Nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước cũng như thống kê của các tổ chức quốc tế cho thấy, có nhiều nguyên nhân khiến tỷ suất sinh của nhiều quốc gia đang ngày càng giảm – không chỉ ở những nước có thu nhập cao mà cả những nước có thu nhập trung bình – trong đó có nguyên nhân chính liên quan tới kinh tế và các áp lực khác nhau trong cuộc sống gia đình.
Trên thế giới, các quốc gia phát triển đã trải qua quá trình này như thế nào, thưa ông?
GS.TS Giang Thanh Long: Nhiều nghiên cứu và thống kê trên thế giới đã chỉ ra các nguyên nhân khiến tỷ suất sinh ở nhiều quốc gia giảm, thậm chí giảm mạnh tới mức cảnh báo nguy cơ giảm dân số (như Nhật Bản, Hàn Quốc). Ở góc độ nào đó, các nguyên nhân này cũng đã và đang diễn ra ở Việt Nam.
Từ các nguyên nhân, Chính phủ một số nước đã có những thay đổi chính sách tương ứng.
Thứ nhất, chính sách dân số của quốc gia tác động đến tỷ suất sinh của chính nước đó. Ví dụ, Việt Nam áp dụng chính sách mỗi gia đình chỉ có hai con rất nghiêm ngặt cho tới Nghị quyết 21 ban hành ngày 25/10/2017 đã chấm dứt chính sách hai con, chuyển sang duy trì mức sinh thay thế và khuyến khích sinh con với trọng tâm chung là chuyển từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Trung Quốc cũng duy trì chính sách 1 con nghiêm ngặt cho tới năm 2019 khi tỷ suất sinh có xu hướng giảm nhanh.
Thứ hai, những bất ổn trong nền kinh tế và thị trường lao động khiến công ăn việc làm không ổn định và nhiều cặp vợ chồng không dám hoặc không muốn sinh con hay sinh thêm con.
Khủng hoảng và suy giảm kinh tế giai đoạn 2008-2013 đã chứng kiến tỷ lệ thất nghiệp tăng và tỷ suất sinh giảm nhanh ở một số nước Nam Âu do các cặp vợ chồng đối mặt với khó khăn kinh tế và quyết định không có thêm con hoặc sẽ có con chậm hơn dự định.
Sau đại dịch COVID-19, nhiều quốc gia cũng chứng kiến tỷ suất sinh giảm do khó khăn kinh tế chồng chất với nhiều hộ gia đình.
Các quốc gia Đông Âu như CH Séc, Hungrary đã có những chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân, giảm hoặc miễn học phí cho các trường công lập… để khuyến sinh khi chứng kiến mức sinh liên tục giảm sâu trong 5 năm vừa qua.
Thứ ba, khó khăn trong theo đuổi sự nghiệp với các trách nhiệm gia đình, đặc biệt là với phụ nữ (tham gia thị trường lao động nhiều hơn, phải học tập và trau dồi kiến thức, kỹ năng nên nhiều người có xu hướng lấy chồng muộn hơn và có con chậm hơn dự kiến hoặc ngại có thêm con vì còn nhiều dự định công việc dang dở). Nhận định được vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản, Hàn Quốc đã khuyến khích công việc và giờ làm việc linh hoạt với phụ nữ.
Nhiều gia đình vẫn mong muốn sinh 2 con
Hỗ trợ chi trả nhiều dịch vụ để "kích" mức sinh
Thứ tư, sự bất bình đẳng giới trong các công việc gia đình, trong đó có chăm sóc con nhỏ, thậm chí là chăm sóc người cao tuổi, người có sức khỏe yếu... Thống kê cho thấy, phụ nữ có số giờ hàng tháng làm việc nhà và các công việc chăm sóc không được trả công lớn hơn nhiều so với nam giới.
Điều này khiến họ mất nhiều cơ hội công việc, thậm chí chìm đắm vào mệt mỏi cả thể xác và tinh thần. Đối mặt với những công việc "kham khổ" đó, nhiều phụ nữ không muốn sinh thêm con.
Để giảm bớt những vấn đề này, những năm gần đây, Chính phủ Hàn Quốc nỗ lực lớn trong việc hỗ trợ chi trả cho dịch vụ chăm sóc trẻ và chăm sóc người cao tuổi.
Trong thập kỷ vừa qua, Chính phủ Nhật Bản cũng đã mở rộng và tăng cường các chế độ thai sản và chăm sóc con cái, trong đó các bà mẹ mới sinh con có thể nhận được 50% đến 67% mức lương thông thường của họ trong thời gian nghỉ phép (tăng từ mức 25% vào năm 2000).
Chính phủ Nhật Bản cũng đã tăng chế độ nghỉ phép chăm sóc con cho nam giới và kết quả là tỷ lệ nam giới nghỉ phép theo chế độ này tăng từ 1,4% vào năm 2010 lên 12,7% vào năm 2020. Cùng thời gian này, tỷ suất sinh ở Nhật cải thiện từ mức 1,17 lên 1,26.
Thứ năm, chăm sóc và chi phí nuôi, dạy con ngày càng lớn nên khiến nhiều gia đình chỉ tập trung vào một hoặc hai con, không muốn có thêm. Điều này đang thấy rõ ở các đô thị nơi mà chi phí học hành, chăm sóc sức khỏe ngày càng cao.
Ở Trung Quốc, chi phí trung bình để nuôi một đứa trẻ cho đến khi 18 tuổi là 485.000 nhân dân tệ ở Trung Quốc vào năm 2019 (trong đó hơn 1 triệu nhân dân tệ ở Thượng Hải và 969.000 nhân dân tệ ở Bắc Kinh), gấp 6,9 lần GDP bình quân đầu người của Trung Quốc và cao hơn nhiều so với nhiều nước phát triển như Đức và Nhật Bản.
Áp lực nuôi con chủ yếu là vấn đề kinh tế, trong khi chăm sóc người già là vấn đề về thời gian và năng lượng. Khảo sát xã hội chung Trung Quốc năm 2019 chỉ ra rằng, 27% gia đình thành thị ở Trung Quốc bao gồm các thành viên từ 60 tuổi trở lên và 14 tuổi trở xuống, nghĩa là cứ bốn gia đình thì có một gia đình phải đối mặt với áp lực kép là chăm sóc trẻ em và chăm sóc người già.
Đây chính là lý do mà Chính phủ Trung Quốc tiến hành việc mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội (để người cao tuổi có thể nhận lương hưu, đảm bảo thu nhập về già) cùng với việc thí điểm và triển khai bảo hiểm chăm sóc dài hạn để giảm bớt gánh nặng chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt là chăm sóc tại nhà.
Tỷ suất sinh ở Việt Nam chưa đến mức đáng lo ngại
Thứ sáu, nhà ở trở nên quá đắt đỏ so với thu nhập, đặc biệt là những hộ gia đình trẻ. Điều này đang là thách thức lớn ở các khu vực đô thị trên toàn thế giới. Chưa kể, có những quy định liên quan tới việc không gian tối thiểu cho một người dân trong một căn hộ nên chỉ cần sinh thêm con là phải chuyển căn hộ lớn hơn và chênh lệch rất lớn về tiền, khiến nhiều hộ gia đình không thể chi trả.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có nhận định trong Hội nghị trực tuyến toàn quốc về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội vào ngày 6/3/2025: "Bây giờ không hạn chế sinh con để chống già hóa dân số, nhưng nhà ở chỉ có 10 m2, 15 m2, 20 m2 thì làm sao sinh ba được. Đây là động lực phát triển dân số chứ không chỉ là vấn đề ăn ở".
Nhận định của Thủ tướng hết sức xác đáng, phản ánh đúng vấn đề lo lắng nhất hiện nay của nhiều cặp vợ chồng trẻ, đặc biệt là những người di cư ở các đô thị lớn. Việc tăng khả năng tiếp cận, có thể mua được nhà ở xã hội cũng như hỗ trợ tiền thuê nhà cho những cặp vợ chồng có thu nhập thấp là chính sách mà Chính phủ các nước như Trung Quốc, Thái Lan cũng đang xem xét thực hiện.
Thứ bảy, những thay đổi trong các quan niệm về gia đình cũng như kỳ vọng làm thay đổi nhu cầu sinh con. Trước đây, các gia đình sinh nhiều con, nhất là con trai, vì cần sức người cho sản xuất nông nghiệp cũng như kỳ vọng là "nguồn sống" (nuôi hoặc hỗ trợ thu nhập) cho bố mẹ già. Chính điều này làm bất bình đẳng giới rất nghiêm trọng và tỷ số giới tính khi sinh rất chênh lệch.
Tuy nhiên, quan niệm này đã thay đổi khi nữ quyền về mặt kinh tế được cải thiện, quan niệm về độc lập giữa các thế hệ, đặc biệt là độc lập về kinh tế và đời sống gia đình, đã thay đổi suy nghĩ từ việc chỉ đơn thuần là có nhiều con vì "trời sinh voi, trời sinh cỏ" sang ít con nhưng chăm tốt hơn để chúng lớn lên có thể tự chủ, sống độc lập sớm.
Đây cũng chính là lý do mà các nước tiến hành việc mở rộng nhiều chính sách an sinh xã hội để đảm bảo đời sống của các thế hệ và khuyến sinh.
Tỷ suất sinh ở Việt Nam chưa đến mức đáng lo ngại
Theo ông, Việt Nam có thể tham khảo những bài học nào của thế giới để tăng mức sinh và duy trì mức sinh thay thế?
GS.TS Giang Thanh Long: Trước hết, phải khẳng định một thực tế là tỷ suất sinh ở Việt Nam đã thấp hơn mức sinh thay thế nhưng không phải là quá thấp đến mức đáng lo ngại.
Một điểm rõ rệt là có sự khác nhau về tỷ suất sinh giữa các vùng miền (vùng có điều kiện kinh tế thấp hơn lại có tỷ suất sinh cao hơn hẳn mức thay thế và ngược lại), khu vực (nông thôn luôn có tỷ suất sinh cao hơn hẳn mức thay thế và ngược lại với khu vực thành thị). Đáng quan tâm hơn cả - phụ nữ có trình độ học vấn thấp lại có mức sinh cao hơn hẳn mức thay thế và cao hơn nhiều so với phụ nữ có trình độ cao hơn.
Nói cách khác, nơi nhóm dân số có điều kiện khó khăn hơn lại có tỷ suất sinh cao hơn và ngược lại. Điều đó có nghĩa là, cùng với những tâm thế giữ ổn định mức sinh thì giải quyết những vấn đề liên quan tới sự khác biệt tỷ suất sinh là điều mà chúng ta cần phải quan tâm ngay lập tức.
Kinh nghiệm quốc tế từ những yếu tố tác động như đã nêu trên cho thấy, chúng ta cần phải có sự đồng bộ, nhất quán và có tính tương hỗ giữa các chính sách liên quan.
Ví dụ, Nhật Bản đã chi hàng trăm tỷ USD cho chính sách hỗ trợ tiền mặt trực tiếp cho phụ nữ khi sinh con. Tuy nhiên, họ nhận thấy rằng, tỷ suất sinh không cải thiện mà nguyên nhân chính là sự sẵn có của các dịch vụ trông trẻ, chăm người già… không nhiều, khiến phụ nữ vẫn phải gánh vác các công việc đó. Điều này khiến họ không mặn mà với chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, sau khi có sự thay đổi về hỗ trợ chăm trẻ thì tỷ suất sinh lại có cải thiện dù không nhiều.
Là nước đi sau về bối cảnh giảm sinh, Việt Nam cần tiến hành đồng bộ các chính sách như mở rộng diện bao phủ bắt buộc với bảo hiểm xã hội; bao phủ toàn dân về bảo hiểm y tế; mở rộng chế độ thai sản; thí điểm và triển khai bảo hiểm chăm sóc dài hạn…
Trân trọng cảm ơn ông!
Hiền Minh (thực hiện)
Nguồn baochinhphu.vn
Link bài gốchttps://baochinhphu.vn/dong-bo-chinh-sach-de-tang-muc-sinh-va-duy-tri-muc-sinh-thay-the-102250311084142442.htm