Tuy nhiên theo các chuyên gia nhận định, hạn hán năm nay chỉ là khởi đầu cho các vấn đề nghiêm trọng hơn sẽ xảy ra nếu chính phủ các nước không thay đổi chính sách.
“Đây là thảm họa sinh thái tồi tệ nhất trong lịch sử lưu vực sông Mê Kông”, chuyên gia tài nguyên thiên nhiên của Thái Lan Chainarong Setthachua cho biết.
Mực nước ở hồ Tonle Sap (Campuchia) - hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á, được mệnh danh là trái tim của sông Mê Kông, đã bị giảm xuống mức thấp chưa từng có, khiến một ngôi làng chài trên nước hoàn toàn bị biến mất. Điều này rất khó tin đối với người dân địa phương Tonle Sap, bởi nó xảy ra không phải vào mùa khô, mà chính trong hai tháng mùa mưa.
“Tình trạng cá chết vì nước sông cạn kiệt, nhiệt độ nóng kèm theo nước độc hại do thiếu oxy, sẽ khiển khoảng 2,5 triệu người sống phụ thuộc vào hồ với nghề đánh cá bị ảnh hưởng trực tiếp”, chuyên gia thủy sản Youk Sengleng hoạt động ở vùng Tonle Sap chia sẻ những quan sát và cảnh báo của mình.
Lấy quá nhiều nước từ một con sông, về cơ bản sẽ hút sự sống ra khỏi nó, đồng nghĩa với việc các chất ô nhiễm trở nên đậm đặc hơn và dòng nước chảy chậm lại, dẫn đến sự tích tụ các trầm tích làm tắc nghẽn lòng sông.
Trong một mùa mưa bình thường, hồ Tonle Sap mở rộng kích thước của nó lên hơn 40% nhờ mực nước dâng cao 7- 8m ở sông Mê Kông sau những cơn mưa. Hiện tượng xung lũ tuyệt vời này biến nhánh Tonle Sap như một nguồn dự trữ, đưa nước sông Mê Kông đổ về hồ lớn, thường xảy ra vào giữa cuối tháng 8 và giữa tháng 9.
Ngay lúc này, một đám mây đen nặng nề của sự lo lắng và bất ổn đang treo lơ lửng trên số phận của dòng sông. Tình trạng của nó thay đổi hằng năm, nhưng hiếm khi có xung lũ giảm mạnh như vậy. Nó đã quá yếu để hỗ trợ nghề nuôi trồng thủy sản và bảo đảm lương thực giúp nuôi sống khoảng 60 triệu người đang sinh sống ở hạ lưu sông Mê Kông.
Giám đốc Viện Thủy sản quốc tế Hull (HIFI, thuộc Đại học Hull ở Anh) Ian Cowx giải thích rằng trở ngại lớn nhất đối với sự phục hồi của nghề thủy sản không phải là sự biến đổi khí hậu và hạn hán, mà là từ các con đập ở thượng nguồn.
Theo nghiên cứu của HIFI, tất cả các loài cá đều thích nghi với chu kỳ hạn hán và lũ lụt và yếu tố khí hậu không gây ra nguy cơ tuyệt chủng. Vấn đề lớn ở đây là liệu các hoạt động khác như điều tiết dòng chảy và hiệu ứng rào cản gây ra bởi hoạt động thủy điện, chất ô nhiễm và khai thác trầm tích có làm suy giảm môi trường sống và làm tăng nguy cơ tuyệt chủng hay không.
“Có lẽ vấn đề lớn nhất ở đây là dòng chảy giảm sút do những con đập ở Trung Quốc, đập Lower Sesan 2 (trên một nhánh sông Mê Kông ở Campuchia) và mất hẳn kênh Hou Sahong vì đập Don Sahong”, ông Ian Cowx cho biết.
Ngoài ra, đập Xayaburi (Lào), con đập đầu tiên được xây dựng và gần như hoàn thành ở hạ lưu sông Mê Kông, là một vị dụ khác về dự đoán thiệt hại lâu dài cho hệ sinh thái, lớn hơn nhiều so với vấn đề biến động nguồn nước tạm thời.
Thiếu mưa là lý do chính khiến mực nước hạ thấp ở sông Mê Kông vào tháng 7 vừa qua, nhưng hoạt động tại đập Jinghong ở Vân Nam (Trung Quốc) và đập Xayaburi khổng lồ sắp xây xong ở Lào, cũng có liên quan đến việc làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nước ở sông Mê Kông. Trung Quốc dường như muốn “tắt vòi nước sông Mê Kông” từ Jinghong với lý do họ phải tiến hành bảo trì lưới điện.
Đồng thời, Xayaburi - thủ phạm tham gia vào các thử nghiệm đặc biệt đã đóng cửa ngăn lũ lụt. Điều đó đã khiến người nông dân Thái Lan sống ở tỉnh Chiang Rai, cách Xayaburi hơn 220km về phía hạ lưu, vô cùng tức giận.
Trong khi công ty xây dựng đập Thái Lan CK Karnchang từ chối mọi trách nhiệm đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nước, các tổ chức phi chính phủ Thái Lan đã kiến nghị lên Tòa án Hành chính Thái Lan, yêu cầu cơ quan điện lực Thái Lan (EGAT) trì hoãn việc mua điện từ đập Xayaburi, chờ điều tra thêm về các ảnh hưởng tiềm năng của nó trong vụ hạn hán bất hợp lý. Vụ kiện có thể trì hoãn việc khánh thành đập Xayaburi dự kiến vào tháng 10 tới.
Mọi thứ đang thay đổi dọc theo sông Mê Kông. Hạn hán đang gia tăng kéo theo nguồn tài nguyên nước đang suy giảm. Sự phong phú của các nghề thủy sản và đa dạng sinh học đang bị đe dọa cả từ biến đổi khí hậu và sự tàn phá đến từ bàn tay con người không được kiểm soát dọc theo sông.
Giảng viên ngành sinh thái chính trị và quản lý tài nguyên thiên nhiên tại Đại học Maha Sarakham (Thái Lan), Chainarong khẳng định rằng: “Hôm nay chúng ta có thể thấy việc xây dựng các đập của Trung Quốc ở thượng nguồn, hay đập Xayaburi (Lào) là minh chứng rõ ràng cho chính sách của chính phủ các nước trên dòng sông Mê Kông, đã tạo ra một thảm họa sinh thái ở lưu vực sông lớn nhất trong khu vực”.
Mặc cho những cảnh báo khoa học khác nhau về sự suy giảm nghiêm trọng của Mê Kông, các nhà hoạch định chính sách và chính phủ đã thờ ơ trước các yêu cầu của xã hội dân sự trong việc triển khai các biện pháp kiểm soát môi trường quy mô hơn để bảo vệ con sông Mê Kông.
Một cảnh báo quan trọng đã được đưa ra bởi Ủy ban sông Mê Kông (MRC), gồm 4 quốc gia thành viên Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. MRC chính thức công bố báo cáo Nghiên cứu của Hội đồng về tác động của thủy điện vào năm 2018.
Theo báo cáo, một trong số nhiều kết luận đáng báo động là khối lượng sinh thái cá sẽ giảm 35 - 40% vào năm 2020. Thêm vào đó, báo cáo cảnh báo rằng việc phát triển thủy điện đến năm 2040 sẽ hủy hoại khả năng cá di chuyển ở phần lớn các vùng của sông Mê Kông. Không có loài cá nào trên sông Mê Kông có thể sống sót trong các hồ chứa đập sẽ được lên kế hoạch xây dựng vào năm 2020 và 2040.
MRC đã báo cáo giá trị của nghề cá ở sông Mê Kông - nghề thủy sản nước ngọt lớn nhất thế giới - đạt mức 11 tỉ USD nguồn thu từ đánh bắt tự nhiên (chưa kể các trang trại cá) cho các nước thuộc MRC. Các nhà quan sát có thể sẽ hình dung ra thảm kịch của tình trạng cá bị tuyệt chủng.
Tuy vậy, ba trong số 4 quốc gia thành viên - Lào, Thái Lan và Campuchia - đã bất ngờ từ chối xác nhận tài liệu mang tính bước ngoặt này vốn đã dựa trên 5 năm nghiên cứu, đồng thời ít bày tỏ mong muốn tranh luận về báo cáo. Chỉ có mỗi Việt Nam hoan nghênh và tán thành báo cáo nói trên.
Tình trạng xói lở ven sông ở đồng bằng sông Mê Kông - Ảnh: The Diplomat
Chuyên gia độc lập về sinh thái Mê Kông, tiến sĩ Nguyễn Hữu Thiện, người đã làm việc trên một số báo cáo quốc tế về dòng sông với tư cách là cố vấn cho Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) và Trung tâm Quản lý môi trường quốc tế (ICEM), đã khẩn thiết kêu gọi chính phủ các nước khu vực Mê Kông “cần thức tỉnh trước các báo động của những năm gần đây và cần bắt đầu hợp tác cùng nhau vì lợi ích chung”.
Trong một cuộc phỏng vấn ở Cần Thơ, ông Thiện đã bày tỏ mối quan tâm lâu dài của mình đối với quốc gia trong tương lai: “Vùng châu thổ Mê Kông đang chìm vì hầu hết các trầm tích giàu chất dinh dưỡng quan trọng để bổ sung cho đồng bằng bị kẹt ở thượng nguồn bởi các con đập. Điều này gây ra suy thoái môi trường quy mô lớn và cũng liên quan đến sự mất ổn định và căng thẳng trong khu vực. Trong tương lai, vùng đồng bằng sẽ không còn có thể duy trì và đẩy 18 triệu dân sẽ phải chạy trốn như những người di cư và tị nạn. Thủy điện ở khu vực sông Mê Kông đang gieo mầm cho sự bất ổn và nó có thể trở thành một vấn đề an ninh của khu vực”.
Một nghiên cứu bởi Viện Môi trường Stockholm (trự sở tại Thụy Điển) mới được công bố vào năm 2018 cho thấy 96% trầm tích giàu chất dinh dưỡng của sông Mê Kông sẽ không bao giờ đến được vùng đồng bằng, nếu tất cả 11 đập mà dự kiến sẽ được xây dựng ở khu vực hạ lưu sông Mê Kông.
“Việc phá hủy thượng nguồn để xây đập hay suy thoái môi trường dẫn đến việc Việt Nam mất vùng đồng bằng, điều đó có nghĩa là mất nguồn thu chính về gạo, trái cây và rau quả, chiếm gần 25% GDP cả nước. Về lâu về dài, nếu không có đồng bằng, liệu Việt Nam có thể tồn tại như một quốc gia?”, tiến sĩ Thiện nhấn mạnh.
Người đứng đầu bộ phận về tài nguyên nước của WWF, Marc Goichot cho rằng việc ngăn xây dựng các đập có thể mang lại nhiều lợi ích cho dòng sông. “Việc giữ cho dòng sông ở hạ lưu chảy tự do sẽ khiến khoảng 28 triệu người ở Campuchia và Việt Nam kiên cường hơn với thảm họa khí hậu và nước, đồng thời cải thiện sự ổn định về lương thực”, Marc Goichot cho biết.
Nhà phân tích năng lượng của Mê Kông, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Stimson (Mỹ) Brian Eyler tin rằng hy vọng đang tăng lên khi các đập thủy điện có thể sớm bị coi là lỗi thời so với năng lượng tái tạo từ mặt trời và gió vốn đang bắt đầu phát triển trong khu vực sông Mê Kông bởi các quốc gia MRC.
“Kể từ khi đập Xayaburi của Lào được Thái Lan tài trợ, và bắt đầu xây dựng vào năm 2012, đã có nhiều thay đổi. Tôi chắc chắn rằng một số quan chức ở Thái Lan, cũng như chính phủ nước này rất tiếc khi thấy đập Xayburi là một dự án hoàn toàn không cần thiết”, chuyên gia Brian Eyler cho biết.
Được biết, thỏa thuận MRC được ký kết năm 1995 nhằm hướng tới một dòng sông hợp tác quốc tế và chia sẻ công bằng tài nguyên nước. Nhưng tiến sĩ Trần Đình Thiên, Giám đốc Học viện Kinh tế Hà Nội, phát biểu tại một diễn đàn Mê Kông vài năm trước, than thở rằng mục đích đó đã không đạt được cái cách mà nó đang được giải quyết. “Chúng ta chỉ có thể cứu sông Mê Kông bằng cách loại bỏ tâm lý hẹp hòi theo kiểu "ao nhà" của mình trong việc kiếm lợi nhuận từ mỗi phân khúc sông có chủ quyền tương ứng với lãnh thổ của từng quốc gia”, ông Thiên kêu gọi.
Một số nhà bình luận có tư tưởng hoài nghi có thể cho rằng đã quá muộn để xoay chuyển mọi thứ mà cần vạch ra một con đường mới và bền vững hơn cho sông Mê Kông. Vào thời điểm mà tình trạng “sức khỏe” của sông Mê Kông đang bị đe dọa nguy hiểm chưa từng có, học giả người Thái Lan Chainarong lại đưa ra một đề xuất thuyết phục hơn.
“Không là quá muộn khi bảo vệ sông Mê Kông bằng cách ngăn chặn tất cả các dự án xây đập thủy điện vốn đang nằm trong kế hoạch, đồng thời cần phải phát triển một chính sách khác cho Mê Kông dựa trên việc tuân thủ các qui định của Ủy ban Đập thế giới cùng sự tham gia đầy đủ của xã hội dân sự và cộng đồng cư dân ven sông.
Tất cả chính phủ của các quốc gia có lãnh thổ thuộc lưu vực sông Mê Kông nên hợp tác cùng nhau để ngăn chặn tác động xấu nhất của thiên tai, thiệt hại sinh thái và cướp bóc tài nguyên thiên nhiên bằng một chính sách khác về Mê Kông, mà vẫn cân bằng giữa bảo vệ môi trường và phát triển đất nước”, học giả Chainarong nói.
Hoàng Vũ (theo The Diplomat)