Loài ngoại lai xâm hại đang là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây mất đa dạng sinh học toàn cầu, bên cạnh khai thác quá mức, ô nhiễm, biến đổi khí hậu và thay đổi môi trường đất liền-biển. Báo cáo năm 2023 của Diễn đàn liên Chính phủ về đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái (IPBES) cho thấy, hơn 3.500 loài ngoại lai đã được ghi nhận gây tác động nghiêm trọng, với tổng thiệt hại kinh tế toàn cầu ước tính lên tới 420 tỷ USD mỗi năm.
Tốc độ lan rộng của các loài này đang tăng nhanh chưa từng có do tác động từ thương mại, du lịch và hoạt động của con người, trong đó chi phí thiệt hại tăng gấp 4 lần sau mỗi thập kỷ kể từ năm 1970. Mỗi năm có khoảng 200 loài ngoại lai mới được đưa vào các hệ sinh thái mới do hoạt động của con người. Nếu không có hành động kịp thời, con số này có thể tăng thêm một phần ba vào năm 2050 so với năm 2005.
Việt Nam cũng rất dễ bị tổn thương trước sự xâm nhập và lan rộng của các loài ngoại lai, do thiếu dữ liệu và giám sát dài hạn, hạn chế nguồn lực và sự phối hợp liên ngành, nhận thức cộng đồng còn thấp.
Tại Việt Nam, các loài như ốc bươu vàng, cây mai dương và lục bình đang gây ra những tác động nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, hệ sinh thái nước ngọt và sinh kế của người dân. Loài cây mai dương ghi nhận ở rất nhiều địa phương như Phú Thọ, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Đồng Nai, Đồng Tháp với diện tích xâm lấn hàng nghìn ha. Loài cây này có đặc tính phát triển nhanh, tạo bụi rậm dày đặc, gây cản trở giao thông thủy, làm tăng nguy cơ cháy rừng mùa khô đồng thời lấn át thực vật bản địa, ảnh hưởng sinh cảnh chim nước.
Các địa phương cần xây dựng kế hoạch ngăn ngừa và kiểm soát loài ngoại lai xâm lấn (Ảnh minh họa).
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các loài ngoại lai xâm hại không chỉ ảnh hưởng đến sự cân bằng sinh thái, mà còn tác động tiêu cực đến đời sống cộng đồng và nền kinh tế. Những loài này, khi được du nhập vào môi trường mới, có khả năng phát triển mạnh mẽ và lấn át các loài bản địa, từ đó gây ra những biến đổi nghiêm trọng trong cấu trúc sinh học, làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên và thậm chí là mất đi các giá trị của đa dạng sinh học.
Do đó, việc kiểm soát và ngăn chặn sự xâm nhập của các loài ngoại lai xâm hại là một thách thức không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với toàn cầu, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và cộng đồng.
Đối với các loài ngoại lai, nếu được phát hiện sớm và có đủ nguồn lực, việc xóa sổ, khoanh vùng, kiểm soát và phục hồi hệ sinh thái là hoàn toàn khả thi. Vườn Quốc gia Tràm Chim là một trong ví dụ tiêu biểu khi đã thành công kiểm soát sự xâm lấn của sinh vật ngoại lai. Tại đây, vào năm 2006, cây mai dương - một loài cây ngoại lai đã xâm lấn trên diện tích lên tới trên 2000ha. Bằng việc triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như biện pháp cơ học điều tiết mực nước, kiểm soát chủ động định kỳ, không dùng hoá chất, diện tích cây mai dương ở đây đã giảm xuống 22ha vào năm 2024.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, lục bình được thu gom để chế biến thành phân hữu cơ, thức ăn chăn nuôi và sản phẩm thủ công mỹ nghệ, vừa góp phần kiểm soát sinh khối loài xâm hại, vừa tạo thêm thu nhập cho cộng đồng...
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, việc kiểm soát các loài ngoại lai sẽ thành công nếu được triển khai đúng lúc, đúng cách và có tính hệ thống. Để làm được điều này, cần xây dựng các kế hoạch dài hạn, lồng ghép trong quản lý hệ sinh thái, tăng cường giám sát, dữ liệu khoa học và chính sách hỗ trợ.
Theo Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương cần xây dựng kế hoạch ngăn ngừa và kiểm soát loài ngoại lai xâm lấn, áp dụng cách tiếp cận chặt chẽ, khoa học và thực tiễn, dựa trên tình hình thực tế. Trước tiên, cần tiến hành nghiên cứu toàn diện và đánh giá hiện trạng. Kế hoạch cần được thiết kế với mục tiêu rõ ràng đi kèm với các biện pháp thực tiễn. Sự tham gia của cộng đồng đóng vai trò cốt lõi. Việc đảm bảo nguồn lực và tài chính là điều kiện tiên quyết để triển khai các biện pháp hiệu quả...
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho rằng tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt với các quốc gia có chung đường biên giới, giúp ngăn chặn sớm sự xâm nhập và phát tán của các loài ngoại lai ngay từ tuyến đầu. Việc cần thiết xây dựng một cuộc điều tra tổng thể và toàn diện về hiện trạng các loài ngoại lai trong rừng đặc dụng trên phạm vi cả nước. Từ đó, hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về phân loại, kiểm soát và xử lý loài ngoại lai xâm hại, đảm bảo tính đồng bộ giữa các lĩnh vực liên quan gồm đa dạng sinh học, lâm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi và trồng trọt.
Việc kiểm soát, quản lý các loài ngoại lai xâm hại không chỉ giúp bảo vệ hệ sinh thái và các loài bản địa mà còn góp phần thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về Đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây cũng là cách Việt Nam thể hiện cam kết với Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal, trong đó Mục tiêu 6 đặt ra yêu cầu giảm 50% sự lan rộng của loài ngoại lai xâm hại vào năm 2030.../.
Thu Trang