Tại Trà Vinh, nguồn nước ngầm giữ vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, tình trạng khai thác quá mức, sử dụng lãng phí và thiếu kiểm soát trong thời gian qua đã khiến nguồn tài nguyên này dần suy giảm, ảnh hưởng đến sinh kế của người dân và môi trường. Trước thực trạng đó, các địa phương trong tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn nước ngầm.
Trong sản xuất nông nghiệp, nhiều hộ dân đã chuyển đổi phương thức canh tác truyền thống sang mô hình tiết kiệm nước như tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa, ứng dụng công nghệ tự động. Bên cạnh đó, ngành chuyên môn thường xuyên tổ chức tập huấn, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho nông dân về tầm quan trọng của việc bảo vệ nguồn nước.
Việc khuyến khích sử dụng giống cây trồng chịu hạn, bố trí mùa vụ hợp lý cũng góp phần giảm áp lực khai thác nước ngầm. Những chuyển biến tích cực này không chỉ giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn hướng đến mục tiêu lâu dài là phát triển nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường tại Trà Vinh.
Trong thực tế hiện nay nhiều nông dân ở các vùng trồng màu của huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú sử dụng giếng khoan để khai thác nguồn nước ngầm phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản, đang đặt ra nhiều thách thức về nguy cơ ảnh hưởng đến sụt lún, ô nhiễm nguồn nước ngầm thông qua giếng khoan hư, không tráng lắp... Một số hiện tượng như lúc cao điểm, giếng khoan bị tụt nước; việc khoan giếng ngày càng sâu hơn so với trước đây.
Tại địa bàn huyện Cầu Ngang, tại vùng trồng màu trọng điểm của xã Mỹ Long Bắc và thị trấn Mỹ Long, vào vụ màu mùa khô (từ tháng 02 đến tháng 6), hàng ngàn héc-ta màu như đậu phộng, dưa hấu, bí đỏ được xuống giống; trung bình mỗi hộ trồng màu ở đây phải đóng (khoan) từ 02 - 03 giếng khoan.
Thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Cầu Ngang, toàn huyện có hơn 21.000 giếng khoan; trong đó, tập trung nhiều ở các giếng khoan có lưu lượng dưới 10m3/ngày là 18.624 giếng; còn lại có lưu lượng trên 10m3/ngày. Ngoài ra, qua khảo sát của ngành chuyên môn, hiện Cầu Ngang có 283 giếng khoan hư hỏng và đã trám lắp 263 giếng.
Toàn huyện Cầu Ngang hiện có hơn 21.000 giếng khoan.
Theo chia sẻ của người dân, trước đây các hộ trồng màu chỉ đóng giếng có độ sâu từ 80m đến dưới 100m, còn hiện nay, các giếng khoan đều có độ sâu hơn 100m và phải gắn kèm thêm bộ phận bơm trợ lực bằng hình thức bơm mồi thông qua 01 hồ chứa nước được lót vải bạt ny-lon (diện tích 02 x 03m và tùy điều kiện của từng gia đình). Tuy nhiên vào mùa khô, lúc cao điểm từ 09 - 13 giờ, khi các hộ trồng màu đồng loạt chạy máy bơm tưới, các giếng khoan ở đây đều có hiện tượng tụt nước.
Với diện tích trồng màu mùa khô hiện nay chiếm từ 60 - 65%/tổng diện tích màu cả năm (tổng diện tích màu khoảng 50.000ha). Do đặc điểm các vùng trồng màu mùa khô thường phân bố trên vùng đất giồng cát, triền giồng và cát pha… nguồn nước mặt trên các tuyến kênh thủy lợi nội đồng trong giai đoạn này không đủ bơm tát và kênh nội đồng thường nằm xa vùng trồng màu. Trên 90% sử dụng giếng khoan để tận dụng nước ngầm cho trồng màu mùa khô.
Qua đó, cho thấy thực trạng sử dụng nước ngầm trong nông nghiệp tại Trà Vinh phục vụ bơm tưới chính cho cây màu nên tình trạng hụt nước ngày càng rõ rệt trong mùa khô (từ tháng 02 đến tháng 6) và người dân phải khoan giếng sâu hơn trước đây (trên 100m) mới có thể tiếp cận nguồn nước sử dụng được; kéo theo chi phí khoan giếng sâu, bơm nước và bảo trì tăng cao; đồng thời gây rủi ro lớn cho sinh kế của người dân nếu hạn hán kéo dài.
Nguồn nước có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Hiện Trà Vinh triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ nguồn nước ngầm và sử dụng có hiệu quả nhằm tránh các hệ lụy của việc khai thác nước ngầm quá mức làm suy giảm mực nước ngầm, dẫn đến nguy cơ xâm nhập mặn, nhất là tại các khu vực gần biển; gây lún sụt đất do tầng chứa nước bị rỗng dần. Chất lượng nước suy giảm, có thể bị nhiễm phèn, nhiễm mặn hoặc ô nhiễm kim loại nặng.
Vừa qua, mô hình xây dựng bể lót bạt nhựa để trữ nước trong trồng màu của chương trình do UNDP tài trợ, Hiệp hội Cao đẳng cộng đồng Việt Nam là đơn vị điều phối, Trường Đại học Trà Vinh là đơn vị thực hiện đã triển khai ở huyện Trà Cú; qua đó, đã lắp đặt 05 hệ thống túi trữ nước tận dụng tái chế nguyên liệu từ bạt nuôi tôm và hệ thống tưới nước tiết kiệm cho 05 hộ ở xã Hàm Giang, huyện Trà Cú.
Để bảo vệ và phát huy tốt việc khai thác nguồn nước ngầm trong sản xuất nông nghiệp, Trà Vinh cần hướng đến quy hoạch và kiểm soát khai thác nước ngầm. Trong đó, cần có quy định chặt chẽ về độ sâu, lưu lượng và mật độ giếng khoan; giám sát mực nước ngầm định kỳ để cảnh báo sớm tình trạng suy giảm. Song song đó, đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi nhỏ và vừa qua các mô hình như các ao trữ nước, mương dẫn nước từ nguồn mặt khi mùa mưa. Khuyến khích mô hình tưới tiết kiệm như nhỏ giọt, phun mưa thay cho tưới tràn và ứng dụng khoa học - kỹ thuật để chuyển đổi cây trồng phù hợp với điều kiện khô hạn; sử dụng giống chịu hạn, thời gian sinh trưởng ngắn.
Hoạt động khai thác nước ngầm phục vụ sản xuất nông nghiệp là giải pháp thiết yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu và hạn hán. Tuy nhiên, nếu không được quản lý hợp lý, nguồn tài nguyên quý giá này sẽ dần cạn kiệt, gây ra nhiều hệ lụy lâu dài. Chính quyền địa phương, các ngành chức năng và người dân cần có những hành động cụ thể và đồng bộ để bảo vệ nguồn nước ngầm, bảo đảm phát triển nông nghiệp bền vững tại Trà Vinh.
Ngoài các giải pháp kỹ thuật, tỉnh Trà Vinh cần hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các ngành, địa phương và người dân trong công tác quản lý tài nguyên nước. Việc xây dựng quy hoạch khai thác hợp lý, kiểm soát chặt các giếng khoan, đồng thời tăng cường đầu tư vào công trình trữ nước ngọt là cần thiết. Mặt khác, cần đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo và chia sẻ dữ liệu về mực nước ngầm, nhằm kịp thời cảnh báo nguy cơ suy thoái.
Việc bảo vệ nguồn nước ngầm đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Trà Vinh - nơi chịu tác động nặng nề bởi xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu. Để duy trì nguồn nước tưới ổn định, địa phương cần siết chặt khai thác, đẩy mạnh quan trắc và tăng cường tuyên truyền ý thức bảo vệ tài nguyên nước. Song song đó, cần phát triển mô hình canh tác tiết kiệm nước và ứng dụng công nghệ tưới hiện đại. Hoạt động bảo vệ nước ngầm không chỉ đảm bảo sản xuất hiện tại mà còn giữ gìn nguồn tài nguyên quý giá cho những giai đoạn tiếp theo.
Anh Thư