Hành trình hàng chục năm phủ xanh và giữ rừng

02/09/2025 20:27

Việc “Việt Nam từ mất rừng thành quốc gia tăng rừng” nhiều lần được đề cập tại các diễn đàn về khí hậu và đa dạng sinh học. Trong bản đồ toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đi ngược chiều suy thoái rừng, trở thành điểm tham chiếu cho nhiều nước đang phát triển.

Hàng chục năm về trước, ở nhiều vùng trung du và miền núi chỉ có đất trọc và đá sỏi. Những năm chiến tranh kéo dài, cộng thêm khai thác quá mức, đẩy đất nước đến nguy cơ “trắng rừng”. Núi đồi xói mòn, lũ quét liên tiếp tràn xuống bản làng, nhiều con sông trở nên đục đỏ vì phù sa. Người dân miền núi mất dần sinh kế, an ninh môi trường bị đe dọa nghiêm trọng.

Từ năm 1945 đến cuối thập niên 1980, rừng suy giảm liên tục. Số liệu lưu lại cho thấy diện tích che phủ từ mức trên 43% tụt xuống chỉ còn khoảng 27%. Khi đó, Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia mất rừng nhanh nhất thế giới. Những báo cáo gửi về đều dùng những từ ngữ mạnh: “khủng hoảng rừng”, “nguy cơ sa mạc hóa”.

Năm 2024, tỷ lệ che phủ rừng cả nước đạt trên 42%. Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, đổi mới đã mở ra hướng phát triển. Theo đó, Chính sách giao đất, giao rừng cho hộ gia đình và cộng đồng, cùng chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, đã thay đổi cách người dân nhìn vào cánh rừng. Ở nhiều nơi, lần đầu tiên bà con được cầm trong tay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng. Cái nhìn với rừng đổi hẳn, từ “của chung vô chủ” thành tài sản gắn liền với miếng cơm, manh áo.

Năm 1990, diện tích rừng chỉ còn khoảng 9,1 triệu ha. 3 thập kỷ sau, con số đã vượt 14,7 triệu ha. Độ che phủ vươn lên 42%, quay về mức của thập niên 1940 dù dân số đã tăng gấp nhiều lần và đất nông nghiệp mở rộng. Những dự án quy mô lớn như Chương trình 327 và sau đó là trồng mới 5 triệu ha rừng (1998-2010) trở thành dấu mốc trong lịch sử ngành. Tới năm 2010, tỷ lệ che phủ đã vượt 40%, khép lại chuỗi dài suy giảm.

Không chỉ những nỗ lực trong nước, cộng đồng quốc tế cũng ghi nhận. Các tổ chức quốc tế, nhất là Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) nhiều lần nhấn mạnh, Việt Nam là điển hình phục hồi rừng, khi kết hợp được bảo vệ rừng tự nhiên với phát triển rừng trồng quy mô lớn.

Điều làm nên khác biệt nằm ở sự tham gia của người dân. Tới nay, khoảng 2,6 triệu hộ gia đình trực tiếp quản lý và chăm sóc rừng, nắm giữ hơn 27% diện tích toàn quốc. Ở khu vực Tây Bắc, nhiều bản làng từ bỏ tập quán đốt nương, chuyển sang giữ rừng để nhận khoán bảo vệ. Ở Tây Nguyên, mô hình cộng đồng bảo vệ rừng khộp, rừng thông giúp diện tích tự nhiên dần hồi sinh.

Một thước đo khác cũng quan trọng không kém, đó là chất lượng rừng. Sau nhiều năm chỉ nhắm tới tỷ lệ che phủ, ngành lâm nghiệp đã chuyển hướng sang rừng gỗ lớn, rừng đa loài, rừng đa mục đích. Tới năm 2024, hơn 500.000 ha đã đạt chứng chỉ quản lý bền vững - tấm “hộ chiếu xanh” để gỗ Việt Nam đi vào những thị trường khó tính.

Theo Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thành quả hôm nay là kết quả của một chuỗi chính sách cộng hưởng, từ giao đất giao rừng, đầu tư ngân sách, đến huy động doanh nghiệp và cộng đồng. Điều đáng quý là rừng không còn chỉ được nhìn như nguồn lợi khai thác, mà đã trở thành nền tảng cho phát triển bền vững, gắn liền với cả môi trường lẫn sinh kế.

Từ nền tảng đó, ngành lâm nghiệp bước vào những mục tiêu mới: gia tăng giá trị rừng, tham gia thị trường carbon toàn cầu, đóng góp vào cam kết phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho rằng, nếu chỉ coi rừng là cây xanh, chúng ta mới thấy một phần giá trị. Khi coi rừng là tài sản, giá trị ấy được nhân lên cả về kinh tế lẫn môi trường.

Những con số từ địa phương minh chứng rõ ràng. Đơn cử, tỉnh Yên Bái (cũ) sau 20 năm tăng thêm hơn 100.000 ha rừng, nhiều vùng đồi trọc phủ xanh bạt ngàn. Tỉnh Quảng Nam (cũ) phát triển rừng gỗ lớn, giúp thu nhập hộ dân tăng gấp hai, ba lần so với trồng rừng chu kỳ ngắn. Ở Tây Nguyên, chính sách khoán bảo vệ rừng đưa nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số có thêm nguồn thu ổn định.

Trồng dược liệu dưới tán rừng - nguồn sinh kế bền vững cho nhiều người dân vùng cao. Ảnh minh họa.

Việc Việt Nam từ mất rừng thành quốc gia tăng rừng đã nhiều lần được đề cập trong các diễn đàn về khí hậu và đa dạng sinh học. Trong bản đồ toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đi ngược chiều suy thoái rừng, trở thành điểm tham chiếu cho nhiều nước đang phát triển.

Nhìn lại chặng đường 80 năm, hành trình giữ rừng của Việt Nam có đầy mất mát và hồi sinh. Từ những sườn đồi loang lổ vết cháy đến những tán xanh kéo dài tới tận chân trời, rừng đã trở thành “tài sản xanh” của quốc gia. Rừng bảo vệ môi trường, giữ nguồn nước, nuôi sống hàng triệu con người. Và quan trọng hơn là mở ra một cánh cửa để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, gắn rừng với kinh tế xanh, với thị trường carbon, với trách nhiệm toàn cầu…/.

 

BÙI HOÀNG

Nguồn thiennhienmoitruong.vn
Link bài gốc

https://thiennhienmoitruong.vn/hanh-trinh-hang-chuc-nam-phu-xanh-va-giu-rung.html

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Bảo đảm an ninh nguồn nước trong phát triển kinh tế tại Đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đứng trước thách thức lớn khi nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng gia tăng, kéo theo áp lực lên nguồn tài nguyên nước. Việc cân bằng giữa khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước được xem là giải pháp trọng yếu nhằm bảo đảm an ninh nước và ổn định lâu dài cho vùng đất châu thổ.

80 năm quản lý, sử dụng tài nguyên đất đai

Luật Đất đai năm 1987 - một trong những đạo luật đầu tiên sau đổi mới đã đưa việc quản lý đất đai vào khuôn khổ pháp luật, tạo nề nếp đồng bộ, thống nhất và hoàn chỉnh về chế độ quản lý và chế độ sử dụng đất đai, đánh dấu sự trưởng thành của quản lý Nhà nước về đất đai theo pháp luật theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền.