Nga phát triển màng polymer dùng trong phẫu thuật miệng - hàm mặt

07/01/2020 11:02

Theo sciencedirect.com, các nhà khoa học ở Đại học bách khoa Tomsk (TPU) và Đại học y Sibir, Nga, đã phát triển được loại màng polymer để phục hồi niêm mạc miệng (oral mucosa).

Màng được thử nghiệm thành công trên động vật, màng thúc đẩy tái sinh và cho thấy đặc tính kháng khuẩn. Loại màng này không thể thiếu trong các ca phẫu thuật để điều chỉnh bệnh lý của các mô mềm của vùng miệng - hàm mặt (maxillofacial area).

Nhà nghiên cứu Anastasija Konjaeva giải thích rằng sử dụng các phương pháp truyền thống có thể dẫn đến sự hình thành mô sẹo, vết thương lâu lành và đau đớn. Để tối ưu hoá quá trình lành vết mổ, cần sử dụng các màng phủ nhưng vẫn để lại sẹo quanh vết thương. Từ trước đến nay, Nga phải nhập các lớp phủ do nước ngoài sản xuất, khiến chi phí điều trị tăng lên.

Chất tương tự nước ngoài được sản xuất bằng công nghệ rất đắt tiền. Phát minh của các nhà khoa học Nga có giá vừa phải.

Các nhà khoa học đã thu được màng polymer áp điện không dệt từ một chất đồng trùng hợp của vinylidene fluoride với tetrafluoroetylen(VDF-TeFE) bằng cách đốt điện để tái tạo niêm mạc miệng.

Sử dụng phương pháp phun tĩnh điện (electrospinning), các nhà nghiên cứu có thể giảm đáng kể chi phí của vật liệu và cải thiện tính chất của màng. Các vật liệu được sử dụng có tính trơ và không gây ra phản ứng tiêu cực.

Các màng kết quả là dễ thay đổi, đặc biệt có thể gia cố một lớp phủ đồng là một chất chống khuẩn phổ rộng.

Vũ Trung Hương

Nguồn
Link bài gốc

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Chuyên gia Nga cảnh báo về tình trạng ngộ độc vitamin

Theo các chuyên gia nội tiết và dinh dưỡng Nga, cũng giống như dùng bất kỳ chất nào với liều lượng cao, vitamin có thể gây ngộ độc cấp tính và nhiễm độc mạn tính do việc dùng không kiểm soát với liều lượng lớn, không hợp lý.

Phát hiện thêm nguyên nhân gây tự kỷ ở trẻ: Vai trò từ người cha

Theo Nature Medicine, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng một trong những nguyên nhân gây ra bệnh tự kỷ ở trẻ là một đột biến đặc thù trong tinh trùng của người cha, và nguy cơ phát triển căn bệnh này tương quan với tuổi của người cha tại thời điểm thụ thai.