Theo Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tại Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ, toàn tỉnh quy hoạch 17 khu xử lý CTRSH, đến nay đã có 11/17 khu đi vào vận hành với 12 lò đốt và 2 bãi chôn lấp, kèm 19 lò đốt quy mô nhỏ tổng công suất 663,2 tấn/ngày đêm, cùng 5 bãi chôn lấp công suất 750 tấn/ngày đêm.
Mạng lưới khu xử lý CTRSH của Quảng Ninh đang phân bố khá dày, nhưng phần lớn thiết kế theo “đơn vị hành chính cũ” khiến công suất thực tế lệch pha so với nhu cầu sau sáp nhập xã, phường.
Tỷ lệ chuyển dịch công nghệ xử lý CTRSH còn chậm, trong đó tỷ lệ rác chôn lấp giảm từ 54 % (2023) xuống 38,7 % (2024), song vẫn cao so với mục tiêu “dưới 30 % vào cuối 2025” theo Kế hoạch 25/KH UBND ngày 29/01/2021 của UBND tỉnh Quảng Ninh về thực hiện Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Điều này phản ánh nỗ lực đầu tư lò đốt, tái chế bước đầu phát huy tác dụng song còn thiếu cú hích về tài chính và công nghệ để “bứt tốc” đúng hạn.
Mô hình thu gom, vận chuyển rác thải manh mún, trong đó mặc dù tồn tại tới 13 khu xử lý “một xã”, 6 khu liên xã (do Nhà nước đầu tư) và 1 khu liên xã (do doanh nghiệp đầu tư), song mỗi xã/phường lại ký hợp đồng riêng với nhiều tổ thu gom tư nhân hoặc hợp tác xã. Quản trị phân mảnh dẫn tới chi phí cao, khó kiểm soát chuẩn dịch vụ và an toàn lao động.
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, UBND cấp huyện chủ trì lựa chọn đơn vị thu gom, vận chuyển, bố trí điểm tập kết, trung chuyển rác; UBND cấp xã chỉ “phối hợp” và “hướng dẫn”. Trong khi đó, từ 1/7/2025, toàn bộ quyền hạn của cấp huyện sẽ chuyển hẳn xuống cấp xã theo định hướng tại văn bản 1567/UBND-TH và các văn bản Trung ương cũng gây không ít khó khăn cho các xã.
Hiện tại, cán bộ môi trường cấp xã vốn ít (1-2 người), nay gánh thêm khâu tổ chức đấu thầu, giám sát hợp đồng, kiểm đếm khối lượng. Cùng với đó, ngân sách cho xử lý rác thải hiện do cấp huyện quản lý chuyển xuống xã đòi hỏi điều chỉnh dự toán, phân bổ nguồn phí dịch vụ và ngân sách hỗ trợ sẽ rất phức tạp và cần thời gian đê điều chỉnh, xử lý. Bên cạnh đó có 2 khu liên xử lý xã đang vừa xử lý rác, vừa tìm nhà đầu tư mở rộng công nghệ, nếu phân tán về từng xã chủ quản, nguy cơ vỡ kế hoạch, đứt mạch vốn đầu tư và thiếu đầu mối chịu trách nhiệm tổng thể rất cao.
Từ đó, đặt ra vấn đề cần có giải pháp xử lý kịp thời, tránh để xảy ra các vấn đề về thủ tục hành chính tại các xã chưa kịp kiện toàn tổ chức sự nghiệp, trong khi lượng rác tiếp tục tăng theo đà du lịch và đô thị hóa.
Đề xuất nhiều giải pháp phù hợp trong tình hình mới
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh, để khắc phục những bất cập trên, cần có khung ủy quyền linh hoạt trên cơ sở quán triệt Văn bản số 1971/UBND-TH ngày 17/6/2025 của UBND tỉnh về việc cập nhật, bổ sung định hướng một số nội dung về sắp xếp, tổ chức lại một số đơn vị sự nghiệp công lập khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Trong đó, chuyển nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công ích trên địa bàn các xã, phường, đặc khu về Trung tâm cung ứng dịch vụ thuộc UBND xã, phường sau sắp xếp. Đối với các nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công ích mang tính liên xã, phường giao 1 Trung tâm cung ứng dịch vụ thuộc UBND xã, phường sau sắp xếp thực hiện (do UBND cấp huyện xem xét lựa chọn). Mỗi xã, phường được phân bổ ngân sách bảo đảm tối thiểu theo đầu dân và diện tích; công thức tính dựa trên lịch sử chi tiêu cấp huyện cộng thêm hệ số điều chỉnh.
Có cơ chế “đặt hàng - khoán gọn”, cho phép xã đặt hàng (không phải đấu thầu) với đơn vị đang vận hành ổn định tối đa 24 tháng, tránh đứt gãy dịch vụ trong giai đoạn chuyển tiếp; sau đó tổ chức đấu thầu cạnh tranh. Tạo Quỹ “Green PPP” trên cơ sở huy động vốn xã hội hóa, ưu tiên các dự án đốt rác thu hồi năng lượng và công nghệ tái chế tuần hoàn; tỉnh bảo lãnh lãi suất hoặc bảo hiểm doanh thu tối thiểu 5 năm.
Bên cạnh đó, cần thực hiện hệ thống cơ sở dữ liệu số hóa rác thải cấp xã để phục vụ việc triển khai app ghi nhận khối lượng, lịch trình xe, phản ánh hiện trường; dữ liệu realtime về tỉnh, giúp giám sát, tối ưu đường thu gom; Chuẩn hóa trạm trung chuyển, mỗi xã tối thiểu một điểm tập kết kín, sàn chống rò rỉ, thiết bị ép rác giảm 30 % khối tích trước khi vận chuyển; thực hiện mô hình “đảo không rác” tại Vân Đồn, Cô Tô, trong đó thí điểm lò đốt nhiệt phân công suất nhỏ + máy ép nhựa, kết hợp thương mại carbon.
Đáng chú ý, cần sự chung tay của cộng đồng người dân và doanh nghiệp trong việc phân loại tại nguồn “2 màu” theo hướng túi xanh lá cây đựng rác hữu cơ, túi màu xám đựng các loại rác còn lại, thực hiện đồng nhất toàn tỉnh, xã chịu trách nhiệm giáo dục - giám sát - thu phí.
Thực hiện giá dịch vụ theo khối lượng - thanh toán số theo hướng thí điểm cân điện tử trước xe, người dân quét QR trả phí; giúp xóa bao cấp tràn lan, tạo động lực giảm rác; Triển khai Chương trình “Điểm xanh trường học” để học sinh đổi rác tái chế lấy cây xanh, sách, hình thành thói quen từ nhỏ.
Thực hiện liên kết hợp tác xã môi trường, trong đó gộp các tổ thu gom nhỏ thành HTX liên xã, đủ tư cách pháp nhân dự thầu, hưởng lợi nhờ kinh tế quy mô; truyền thông “Zero Landfill 2030” theo hướng mỗi xã công bố bảng điện tử cập nhật tỉ lệ chôn lấp hằng tuần; thi đua giữa các cụm xã.
Sáp nhập sẽ tạo ra bước chuyển thể chế mạnh mẽ, song nếu chính quyền tỉnh và xã không đồng tâm, nguy cơ rác thải và ô nhiễm môi trường thật sự sẽ hiện hữu. Giải pháp cốt lõi nằm ở đặt con người - công nghệ - tài chính trong một vòng tròn đồng bộ, thay vì chuyền quả bóng trách nhiệm.
Quảng Ninh đã, đang và sẽ tiếp tục là thước đo cho bản lĩnh cải cách ở Việt Nam - nơi mà mỗi túi rác không chỉ chứa rác, mà chứa cả uy tín của bộ máy phục vụ dân. Xử lý tốt CTRSH trong giai đoạn chính quyền hai cấp không chỉ giữ màu xanh Di sản thế giới, mà còn khẳng định “tầm vóc quản trị” của một địa phương đi đầu đổi mới sáng tạo.